Tỉnh thành VN > Hưng Yên > Huyện Kim Động > Xã Vũ Xá

Xã Vũ Xá, Huyện Kim Động, Tỉnh Hưng Yên

Thông tin tổng quan về Vũ Xá, Kim Động, Hưng Yên

Vĩnh Xá là 1 xã của huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, nước Việt Nam.

Các số điện thoại quan trọng


Bưu điện Kim Động: (0221)3811135.
UBND Tỉnh Hưng Yên: (0221) 3863823 - 3862750
BVĐK Huyện Kim Động: +84 321 3862 406
Taxi Mai Linh Hưng Yên: 03213.52.52.52
Khách sạn Phố Hiến Hưng Yên: 84 321 3862 909
NH nông nghiệp và phát triển nông thôn: 063 3828364
Phòng vé hàng không VN: 063 3825413

Địa lý thời tiết

Diện Tích: 5,18 km²
Tổng số dân: 5.133 người năm 1999.
Tọa độ: 20°44′31″B 106°5′14″Đ
Mang đặc điểm của khí hậu đồng bằng sông Hồng: nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh hơn nhiều so với điều kiện trung bình vĩ tuyến; thời kỳ đầu của mùa đông tương đối khô, nửa cuối thì ẩm ướt, mùa hạ nóng ẩm, nhiều mưa, khí hậu biến động mạnh.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,20c. Mùa hè nhiệt độ trung bình 30 – 320c; cao nhất vào tháng 6 và 7 nhiệt độ có khi lên tới 380c. Mùa đông nhiệt độ trung bình 17-220c; thấp nhất vào tháng 1 và 2 nhiệt độ 8-100c. Tổng tích ôn trung bình hàng năm là 85030c.
Độ ẩm không khí trung bình hàng năm xấp xỉ 85%, cao nhất 90,6%, thấp nhất 60%. Tháng 3 là tháng ẩm nhất và tháng 11 là tháng khô nhất.
Tổng lượng mưa trung bình hàng năm 1700mm. Lượng mưa trung bình tháng trong năm là 175mm. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 9. Mưa thường xảy ra trùng với nước lũ sông Hồng lên cao, gây úng lụt ảnh hưởng xấu đến sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Nguồn nước sông Hồng là nguồn nước chủ yếu cung cấp cho việc tưới và bồi đắp một phần phù sa cho đồng ruộng.
Với khí hậu – thủy văn như trên là điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng của nhiều loại cây trồng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp đa dạng, phong phú. Song phải có những biện pháp phòng chống hạn úng, đồng thời phải xác định cơ cấu mùa vụ cây trồng hợp lý nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao.

Lịch sử

Vào những thế kỷ đầu của công nguyên, Kim Động thuộc quận Giao Chỉ, thời nhà Đinh có tên là Đằng Châu, thời nhà Trần có tên là Kim Động cho đến nay.
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 70/CP của Hội đồng Chính phủ, huyện Kim Độngsáp nhập với huyện Ân Thi thành huyện Kim Thi, thuộc tỉnh Hải Hưng. Sau 17 năm hợp nhất, đến tháng 4 năm 1996 thực hiện Nghị định số 05/NĐ-CP ngày 27/01/1996 của Thủ tướng Chính phủ, huyện Kim Thi tách ra thành hai huyện Kim Động và Ân Thi như trước.
Kim Động nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, được phù sa sông Hồng bồi đắp. Trải qua hàng vạn năm, bãi bồi lấn dần ra biển, những người dân Việt cổ men theo những dòng sông, săn bắt thủy sản, phát triển nghề trồng lúa nước để sinh sống. Cùng với sự phát triển kinh tế nông nghiệp, những làng mạc định cư đầu tiên của người Kim Động được dựng lên ven sông Hồng. Trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và trong lao động để tồn tại, những người dân với sức lao động cần cù, chịu khó đã đoàn kết, giúp đỡ nhau khai phá những bãi đồng lầy, dựng làng, lập ấp, gieo lúa, trồng màu để sinh sống. Nhiều làng mạc trong huyện hiện nay vẫn còn chữ Xá (nghĩa là cộng đồng cư dân có chung nguồn gốc): Động Xá, Vĩnh Xá, Vũ Xá, Mai Xá,… Đến nay, nhiều nơi trong huyện vẫn còn tên cổ của làng để ghi công lao những người đầu tiên có công khai lập nên, hoặc ghi nhớ những sự tích của làng, như: làng Nở (Duyên Yên), làng Tè (Tạ Xá), làng Phận (Dưỡng Phú)…
Nhân dân Kim Động mang trong mình dòng máu Lạc Rồng, có truyền thống cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh với thiên nhiên, không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, đã cùng đồng bào cả nước đánh đuổi hết thù trong giặc ngoài; ngày nay nhân dân Kim Động đang hăng say phấn đấu xây dựng một Kim Động giàu mạnh, phồn thịnh, phấn đấu trở thành huyện tiêu biểu của tỉnh về mọi mặt...
Ngày 23 tháng 9 năm 2003, xã Bảo Khê được sáp nhập vào thị xã Hưng Yên.
Từ ngày 6 tháng 8 năm 2013, các xã Hùng Cường, Phú Cường được sáp nhập vào thành phố Hưng Yên.
Ngoài ra có một xã nữa là Đằng Châu không rõ cách Đồng Thanh mấy cây số. Xã Đằng Châu là nơi Phạm Bạch Hổ đóng giữ.

Kinh tế

ĐỀN BÀ CHÚA MỤA
Đền được xây dựng tại làng Mụa tức thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá. Tên thường gọi từ xưa đến nay là đền thờ bà Chúa Mụa. Đền được xây dựng trên một vùng đất cao ráo, thoáng mát sát bìa làng, giữa hai cồn đất có tên gọi từ lâu đời là cồn Con Voi và cồn Nghiên Bút. Đền xây theo kiến trúc chữ Nhị, thờ bà Trần Thị Tư còn có tên Trần Thị Ngọc Am thứ phí chúa Trịnh Tráng. Mặt trước của đền quay về hướng tây nam có dòng sông Cửu An chạy dọc từ Ngàng về chợ Thi.
Đền được xây từ thế kỷ 17.Trải qua nhiều năm tháng liên tục có bão gió, lụt lội và chiến tranh tàn phá nên đền đã bị hư hại nhiều. Nhân dân đã góp công sức sửa chữa, tu tạo lại đền nhiều lần trong đó có 4 lần trùng tu vào thời nhà Nguyễn.
Theo văn bia và sắc phong cũng như theo lời người già kể lại sự tích bà Chùa Mụa được chép lại như sau:
Bà Trần Thị Tư sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580), có sắc đẹp lộng lẫy và đức tính chăm chỉ nông tang, bờ bãi lại có giọng hát bổng trầm, thánh thót như suối reo, chim hót. Một hôm trên đường cái quan, chúa Trịnh Tráng cùng quân quan đi kinh lý qua khu dân đang lao động. Nhà chúa bỗng nghe tiếng hát từ xa vọng lại. Tiếng hát làm ngơ ngẩn bề trên. Hát rằng: “Tay cầm bán nguyệt xânh sang/ Hàng trăm thảo tặc lai hàng tay ta”.Chúa Trịnh Tráng bèn cho mời cho gái vừa hát vừa cắt cỏ dưới đồng lên hỏi chuyện. Cô thôn nữ vừa đẹp người, vừa hát hay lại đối đáp khẩu khí khác người, tỏ rõ sự nền nã mà kiêu sa thông tuệ. Chúa truyền rước nàng về Thăng Long và đổi tên nàng thành Ngọc Am.
Từ ngày về phủ Chúa, bà được giao công việc chăm lo đèn sách, lễ nghi và sắp đặt ngôi thứ cho các cung tần mỹ nữ trong nội phủ. Được nhà Chúa yêu dấu cải họ cho bà từ họ Trần thành họ Trịnh: Trịnh thị Ngọc Am.
Sau một thời gian, bà sinh con gái. Chúa Thượng hết mực yêu quý, đặt tên con gái là Trịnh Thị Minh và ban cho bốn đĩa vàng và một đĩa bạc làm vật gia bảo. Trời bắt tội, Công chúa Trịnh Thị Minh sớm lìa đời để lại nỗi thương xót tột độ cho bà Ngọc Am. Qúa đau khổ, bà muốn xa lánh thế tục nhiều hệ luỵ, oan trái nên đã xin Chúa Trịnh Tráng cho bà về quê xuống tóc ăn mày cửa Phật. Chúa Trịnh không thể giữ được bà nơi cung cấm, đã cho khai con sông nhánh đi qua làng Mụa để vận chuyển gỗ, đá xây sẵn cho bà một ngôi đền và một ngọn tháp. Ngôi đền có hai dãy nhà nhiều gian, ở giữa hai dãy nhà là ngọn tháp Cửu phẩm Liên Hoa, cao trăm bậc ghép nối bằng hàng trăm phiến đá, bốn góc tháp được kết dính chốt giữ bằng cốt chì và đồng. Từ khi rời phủ Chúa về tu ở làng, bà rất chăm chỉ tụng kinh niệm Phật. Bà còn cho tu sửa chùa chiền quanh vùng, giúp dân khai khẩn ruộng đất, khơi dòng đào sông, hướng dẫn cho dân làm lúa nước. Bà rất thương người, gặp ai hoạn nạn khó khăn, bà sẵn lòng làm phúc giúp gạo cho tiền, cho thuốc chữa bệnh.
Theo văn bia ghi lại thì tháp Liên Hoa được xâ ựn 3 năm mới song . Chúa Trịnh Tráng cho tuyển thợ đá giỏi từ nhiều nơi về xây tháp vừa tạc tượng bà ngay từ khi bà còn sống. Bà mất năm 68 tuổi sau 28 năm rời phủ Chúa về tu tại làng. Thi hài bà được mai táng tại chân tháp Cửu phẩm Liên Hoa. Đền thời tạo loạn, quân quận He nổi lên kéo qua làng Mụa đã cho dỡ đền, phá tháp lấy đồng chì rèn đúc vũ khí. Nhân dân đã cất dấu được tượng bà và các pho tượng đá cùng ngọn tháp hình nậm. Một thời gian sau, nhân dân lại sửa sang tu tạo ngôi đền và đưa tượng về thờ như cũ để tưởng nhớ công lao của bà. Bà Chúa Mụa mất ngày mùng năm tháng giêng, nên nhân dân lấy ngày đó làm ngày lễ hội thường niên.
Ngoài giá trị về văn hoá, đền Bà Chúa Mụa còn ghi dấu nhiều sự kiện trong quá trình phát triển đi lên của địa phương. Nơi đây là nơi hội họp bí mật của Đảng bộ địa phương thời kỳ địch o – ép, càn quét gay gắt nhất. Đền cũng là nơi các đơn vị thuộc Trung đoàn chủ lực 64 và các đại đội bộ đội địa phương tỉnh luân phiên về đóng quân, rèn cán.
Trong đền còn giữ được nhiều hiện vật quý: 3 tấm bia lớn: 1 bia niên hiệu Đức Long (1629-1634) ghi tiểu sử Bà Chúa Mụa, 1 bia “Trần tộc bia ký” ghi công đức của cộng đồng họ Trần, 1 bia ghi công đức chúa Trịnh Tráng cho xây đền và tháp; một bức đại tự lớn khắc 3 chữ Uy linh từ, dưới bức đại tự là bàn thờ đá có khắc 3 bức phù điêu Long cuốn thuỷ với hình tượng sóng nước, hoa lá rất tinh vi, nghệ thuật; hai câu đối sơn son thiếp vàng khắc chữ nổi:
“Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà
Đức tích nhân tu, chúa cung sùng Phật đạo”
ĐẶc biệt quý là những pho tượng đá trong hậu cung: tượng bà Chúa Mụa, hai pho tượng thị vệ, hai pho Kim Đồng Ngọc Nữ, một phỗng đá, một bát hương đá, hai bát sứ thời Lê. Năm 1963 khi đào sông Cửu An - một công trình thuỷ lợi quan trọng của địa phương, dân công đã đào được đĩa vàng đĩa bạc mà chúa Trịnh tặng cho mẹ con bà Trịnh Thị Ngọc Am chìm sâu dưới đáy giếng nước trước cửa đền.
Đền Bà Chúa Mụa đã được Nhà nứơc công nhận là Di tích nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 2233 ngày 26/6/1995 của Bộ Văn hoá – Thông tin.

Văn hóa du lịch

ĐỀN ĐÀO XÁ
Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành xã Vĩnh Xá. Đây là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo Phật và một nhà thờ của đạo theo Thiên chúa giáo.
Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động, được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi nhất ở đây kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh.
Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn muộn có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão. Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo tên thôn: Đền Đào Xá. Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy.
Thời kỳ 1939 – 1945 Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân đền Đào Xá là một trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức tại đền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt, vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào đóng vai người đến đền cúng lễ, khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà. Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho xí nghiệp Dược phẩm.
Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát hương…
Đền Đào Xá được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 1570 ngày 5/9/1989 của Bộ Văn hoá và Thông tin.
ĐÌNH , CHÙA, MIẾU NGÔ XÁ
Thông Ngô Xá thuộc xã Vĩnh Xá có cả đình, chùa và miếu tạo thành một cụm di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Theo các cụ cao tuổi kể lại thì Ngô Xá từ rất lâu đã có tiếng vang là vùng đất hợp với cây ngô. Bao giờ ngô ở đây cũng xanh tốt, hạt mẩy và to, năng suất cao, do vậy mà có tên là làng Ngô (Ngô Xá). Cả đình, chùa, miếu đều được gọi theo tên làng. Riêng ngôi chùa có tên chữ là “Ninh Khánh Tự”.
Theo dân gian trong vùng truyền tụng, cả cụm di tích này đều do thầy địa lý Tả Ao chọn thế đất rồng chầu hổ phục, chỗ cao thoáng gió, ở ngay đầu làng trước mặt có dòng thông thuỷ gồm cả ao, hồ và sông. Cụm di tích được xây dựng vào thời Hậu Lê, đến thời Nguyễn được trùng tu lại. Chùa thờ Phật, đình và miếu đều thờ Tam vị Đại Vương: Đông Thiện Sùng Tín Đại Vương, Đông Chinh Thiện Môn Đại Vương và Tây Chinh Điạ Phủ Đại Vương. Lễ hội hàng năm được tổ chức vào các ngày 10/3 và 8/8 âm lịch.
Dân gian truyền lại theo thần tích như sau: Những năm bên Trung Hoa loạn li, có một người tên là Sùng Quang quê tận Long Hưng bên Tầu chạy sang cư trú ở xã Phúc Bái, huyện Quốc Oai, phủ Linh Sơn, tỉnh Sơn Tây. Tại Phúc Bái ông đã làm bạn với bà Nguyệt. Gia đình sống trong đầm ấm hạnh phúc và làm nghề cắt thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Chữa bệnh cho người nghèo khó ông bà không thu tiền mà còn nuôi ăn. Nhân dân khắp vùng đều ngợi khen vợ chồng ông là nhân đức. Song hiềm một nỗi vợ choong ông đã cao tuổi rồi mà con cái vẫn chưa có.
Đến thời gian đất nước ta rơi vào cảnh loạn ly, 12 sứ quân tranh giành quyền lực gây bao tang tóc cho dân lành. Vợ chộng ông Sùng Quang phải chạy sang Ngô Xá Trang (tên gọi cỏ của thôn Ngô Xá ngày nay), thuộc phủ Khoái Châu, làm nhà ở nhờ trong khu chùa Ngô Xá. Tại đây ông bà vẫn làm nghề bốc thuốc và nông tang làm kế sinh nhai. Ông bà thường lên chùa lễ Phật cầu tự. Trong một đêm mưa gió bão bùng bà nằm mơ thấy mình sinh đựơc ba con trai khôi ngô tuấn tú, văn võ tài ba. Như mộng bá, một thời gián sau bà mang thai và sinh được ba người con trai và đặt tên con trai là: Trưởng Viết Sùng Công, Thứ Viết Quách Công và Thứ Viết Thiện Công. Cuộc sống của ông bà bây giờ đã đầm ấm hạnh phúc thực sự.
Thần tích ghi tiếp: Ông bà cho cả ba con theo học một đạo sĩ nổi tiến thời bấy giờ. Cả ba người đều được bạn bè trong xã kính nể và yêu mến. Khi ba anh em vào tuổi 18 thì cả cha mẹ đều lâm bệnh tạ thế, ba anh em thương xót làm lễ an táng cho cha mẹ ngay bên cạnh chùa và lập đàn làm lễ cầu siêu báo đáp công ơn. Ba anh ẹm phải tảo tần làm ăn và vẫn nhiệt tâm học hành văn võ. Ba anh em dựng một ngôi quán ở gốc đa đầu làng bán cơm rượu. Chính nơi quán đó đã trở thành chỗ hội tụ của thanh niên trai tráng và các bậc anh hào. Cũng thời kỳ này, nội chiến giữa 12 sứ quân kéo dài gây cho dân ta cảnh nồi da nấu thịt. Đinh Bộ Lĩnh là một trong những sứ quân mạnh và uy tín nhất đóng đô ở Hoa Lư, đã cho tướng Nguyễn Bậc đem quân đi dẹp loạn. Đến đất Ngô Xá thì trời đã tốt. Nguyễn Bậc cho quân sĩ nghỉ tại đây, ba anh dem Sùng Công biết được liền chiêu tập binh sĩ được hơn ba trăm người gồm Phượng Lâu 5, An Tàô 10, An Xá 45, Vĩnh Đồng 45, Dưỡng Phú 51, Cốc Khê Tạ Xá 55, Đào Xá 36 và trang sở tại 55 người, rồi các ông đem quân đến yết kiến tướng Nguyễn Bậc. Thấy được nhiệt tình của ba anh em họ Sùng, Nguyễn Bậc cùng họ đoàn kết làm anh em như trong một bọc. Sau đó họ cùng nhau kéo quân về kinh đôthành Hoa Lư yết kiến vua Đinh.
Dưới sự chỉ huy của ba vị tướng trẻ Sùng Công, quân sĩ đi tới đâu cũng được nhân dân ủng hộ, quân giặc nghe tiếng phải bỏ giáo quy đầu hàng. Các đạo quân phiến loạn tan giã một cách nhanh chóng, giang sơn thu về một mối, dân tộc chấm dứt cảnh chém giết lẫn nhau. Trong niềm vui và phấn khởi tràn ngập kinh thành Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của ba quân, ca ngợi trí thông minh và đức độ của ba anh em Sùng Công. Vua Đinh đã phong tặng Sùng Công làm Trưởng Án Nội Các, Quách Công làm Kim Thiên Môn Điện, Thiện Công làm Tây Chính Trấn Ngự Phủ Điện.
Sau khi nhận chức trong triều được 12 năm, ba ông đã dâng biểu sớ xin triều đình cho về Ngô Xá thăm quê hương và mộ phần cha mẹ, nhà vua cảm kích đã cho ba ông vàng 55 hốt, áo bào 1 cuộn. Người dân địa phương vô cùng phấn chấn khi gặp lại ba ông. Trong niềm vui đó, ba ông đã tặng nhân dân Ngô Xá 300 hốt vàng để lập đình miếu, sửa sang lại ngôi chùa. Qua một thời gian, ba ông đã mất tại xã. Tại ngôi miếu, nhân dân đã tạc tượng ba ông để tôn thờ. Trên bài vị đặt trong khám trước ban thờ, tên ba ông vẫn ngời sáng. Ngày sinh của ba ông là 10/3, ngày mất là 9/8. Vào những ngày này nhân dân gần xa thường đến thắp hương tế lễ, rước kiệu tôn vinh những tấm gương cao đẹp, đã hiến dâng tất cả sức lực trí tuệ của mình để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Để bảo lưu đạo lý tốt đẹp của ba ông, các triều đại sau đó đều phong sắc để nhân dân thờ phụng và học tập. Theo truyền ngôn, thế kỷ XX, khi tiến quân đi đánh giặc Minh qua đây Thái uý Lê Lợi vào thắp hương, được ba ông báo mộng phù giúp, Lê Lợi như được tiếp thêm sức mạnh khi vào trận ông đã giành được thắng lợi lớn.
Phát huy truyền thống đó, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, những di tích này đều là cơ sở che giấu bảo vệ cán bộ, bộ đội góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đến nay đất nước đã đổi mới, các di tích được trở về đúng vị trí là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của làng. Trong những ngày lễ hội, đình chùa, miếu đền, nhân dân tập trung ở di tích này rất đông vui, hào hứng cùng nhau tiến hành tế lễ, rước kiệu và vui chơi với các hình thức văn hóa thể thao sinh động.
Các hiện vật trong cụm di tích hiện còn: hai kiệu bát cống, hai kiệu long đình sơn son thiếp vàng; một bát hương sứ cao 0,38m, đường kính miệng rộng 0,6m năm Bảo Đại thứ 5; một chuông đồng cao 0,85m đường kính miệng rộng 0,42m, một bộ bát bửu, một bộ long đao 8 chiếc; bốn cây đèn lồng và bốn cây đèn gỗ; 6 cỗ ngai, ba ở đình, ba ở miếu đều sơn son thiếp vàng; 16 pho tượng phật ở chùa, 3 pho tượng thần ở miếu; một cầu đá thời Lê gồm 6 tấm đá rộng 0,45m dài 1,05m; 3 bàn thờ gỗ sơn son với riềm chạm dây hoa cỡ 1,4 × 0,6m; 16 cột đá cỡ 2,2 × 0,25; 13 đạo sắc phong thời Lê và thời Nguyễn; một giá gương gỗ sơn son thiếp vàng chạm long vân, 8 đại tự sơn son thiếp vàng và 4 đôi câu đối rất cổ kính. Cụm đình, chùa, miếu Ngô Xá được Nhà nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 634 ngày 11/5/1993 của Bộ Văn hoá Thông tin.
Một số đặc sản của Hưng Yên là nhãn lồng, mật ong hoa nhãn, long nhãn, Cá mòi sông Hồng, hạt sen, bún thang lươn, Đặc sản gà Đông Tảo Hưng Yên, Tương Bần, bánh giày, chả gà tiêu quán, ếch om Phượng Toàn, bún khô Vĩnh Thọ...
Phường / Xã / Thị trấn cùng tên Vũ Xá:

Hình ảnh về Vũ Xá, Kim Động, Hưng Yên


Đồng ruộng Vũ Xá- Kim Động- Hưng Yên

Nhãn lồng Hưng Yên

Dự án bất động sản tại Xã Vũ Xá, Kim Động - Hưng Yên

Hiện chưa có dự án nào tại Xã Vũ Xá, Kim Động - Hưng Yên

Xã Vũ Xá gần với xã, phường nào?

Vị trí Vũ Xá

Ghi chú về Vũ Xá

Thông tin về Xã Vũ Xá, Huyện Kim Động, Tỉnh Hưng Yên liên tục được cập nhật tại tinbds.com. Nếu bạn thấy thông tin không chính xác, vui lòng góp ý với ban quản trị website tinbds.com. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn đóng góp của bạn.
Từ khóa tìm kiếm:
Xã Vũ Xá, Huyện Kim Động, Tỉnh Hưng Yên: bản đồ vị trí, các dự án, phường quận huyện thị xã thành phố trực thuộc. Điện thoại UBND, hình ảnh về Vũ Xá, Kim Động, Hưng Yên